Tất cả những ai đã biết vụ án này đều không chịu tin rằng câu chuyện kỳ lạ mà người ta gọi là ”Một mảnh của Joyce - Amstrong ” là một sự huyền hó thêu dệt bởi một kẻ lạ mặt do sự gợi hứng của một tâm tính sa đọa. Một anh chàng hề cô hồn nhất và lém lỉnh nhất chắc cũng phải nhìn vào sự vật này hai lão lần trước khi dồn cả cái đầu óc tưởng tượng đầy bệnh hoạn của anh vào những việc không thể chối cãi được một cách bi đát đã dựng nên câu chuyện này, mặc dù câu chuyện này đầy rẫy những lời xác quyết rùng rợn và có khi quái đản nữa, nó vẫn không thiếu tính chất đáng tin và nó khiến chúng ta phải xét lại một quan niệm mà ngày nay đã có vẻ lỗi thời. Chỉ có một lằn ranh an toàn mỏng manh để che chở cho con người chống lại một sự nguy hiểm bất ngờ. Trước khi thuật lại câu chuyện nguyên thủy trong cái hình thức không toàn vẹn một cách khốn khổ của nó, tôi xin trình lên các dộc giả cả mọi sự việc mà người ta được biết vào ngày hôm đó. Trước hết tôi xin nói với các bạn có tính đa nghi đã ngờ vực câu chuyện của Joyce - Armstrong rằng các sự việc có dình líu tới đại uý Myrthe trong Hải quân Hoàng gia và ông Hay Connor đã được phối kiểm: Đúng là họ đã chết như người thuật truyện đã mô tả.
” Một mảnh của Joyce – Armstrong ” đã được tìm thấy tại một cánh đồng được gọi tên là Haycock Ha, ở khoảng một cây số rưỡi về phía Tây làng Withyham trên ranh quận Kent và quận Sussex. Ngày 15 tháng chín vừa qua, một anh nông dân là Jamé Flynn, làm công cho trại chủ Mathew Dodd, thuộc Nông Trại Chauntry ở Withyham, trông thấy một cái vố làm bằng rể cây Bruyen ở cạnh con đường chạy dọc theo hàng rào của Haycock Hạ. Cách xa hơn một vài thước nữa, anh ta tìm thấy cặp mắt kính đeo mắt bị bể. Sau rốt, trong những cây gai ở cái hố anh ta phát hiện ra một quyển sách mỏng gáy vải: Đó là một quyển sổ tay, một vài tờ bị long ra và bay tung toé chỗ chân hàng rào. Anh ta nhặt nhanh tất cả: Ba tờ giấy trong đó có hai tờ đầu, đã không thể nào kiếm thấy được. Anh nông dân mang chiến lợi phẩm này về cho ông chủ của anh, rồi ông này đưa cho bác sĩ Atherton ở Hartfield xem. Vị quý nhân này tháy ngay rằng cần có một sự giám định chuyên môn. Vậy là bản thảo được đưa tới câu lạc bộ Hàng không ở London, nơi mà nó vẫn còn tới bây giờ.
Hai trang dầu của bản thảo bị mất. Một trang khác cũng bị rơi mất ở đoạn kết thúc câu chuyện, nhưng sự mạnh lạc của toàn thể không hề hấn gì. Người ta cho rằng đoạn khởi đầu phác hoạ lại giấu tưởng lục của ông Joyce – Armstrong, bằng tưởng lục mà người ta có thể tạo lại một cách dễ dàng và nó vẫn là thứ độc nhất vô nhị trong nghành hàng không Anh quốc. Trong nhiều năm trời Joyce – Armstrong vẫn được coi như một trong những nhân viên phi hành táo bạo nhất và uyên bác nhất. Sự kết hợp các tài năng này đã cho phép ông phát minh và thí nghiệm nhiều phương pháp mà tên tuổi ông vẫn còn được gắn liền. Tất cả bản thảo của ông được viết bằng mực một cách đằng tả, trừ những dòng cuối cùng viết nguệch ngoạc bằng bút chì, gần như không thể đọc được, người ta đoán rằng chúng được viết một cách rất vội vã trên ghế một phi cơ đang bay. Ta cần nói thêm rằng có những vết bẩn làm lem luốc trang cuối cùng và tờ bìa, các giàm định chuyên môn của Bộ Nội vụ tuyên bố rằng đó là những vết máu, có thể là máu người, nhưng chắc chắn là máu của động vật có vú. Sự kiện là việc phân tích chất máu này đã phát hiện một vật gì rất giống con vi khuẩn bệnh sốt rét rừng ( Joyce – Armstrong thường bị những cơn sốt rét ) là một thí dụ đáng kể về những vũ khí mới mà khoa học hiện đại đã đặt vào tay các thám tử của chúng ta.
Bây giờ hãy nói qua tới nhân cách của tác giả một tài liệu sẽ mở ra một kỷ nguyên mới. Nếu ta tin được qua lời một vài người bạn đã biết nhiều về ông, thì Joyce – Armstrong là một người hay mơ mộng và là một thi sĩ, cũng như là một nhà phát minh và một kỹ thuật gia của ngành cơ giới. Ông đã tiêu phầ lớn tài sản đáng kể để thoả mãn sở thích vẻ hàng không trong các xưởng của ông ở gần Devizes. Ông có bốn phi cơ tiêng. Và trong năm ngoái, ông đã bay không dưới 170 lần. Tính nết của ông thường ảm đảm. Trong những dịp này ông tự cách ly và tránh mặt mọi sự tiếp xúc với xã hội. Đại uý Dangerfield, một người bạn đường thân nhất của ông công nhận rằng trong một vài trường hợp tính cổ quái của ông gần đi tới chỗ điên khùng, ông chẳng thường có thói quen mang theo lên ohi cơ một khẩu súng săn đó ư?
Hơn nữa vụ tai nạn xảy ra với Trung Úy Murtle đã khiến ông xúc động một cách hai hại. Trong khi định phá kỷ lục về độ cao, Myrtle đã bị rơi từ một độ cao chừng mười ngàn mét, một sự việc khủng khiếp! Cái đầu ông ta hoàn toàn biến mất, tuy nhiên chân tay và tất cả phần còn lại của thân thể ông vẫn còn giữ được hình thể nguyên thuỷ, mỗi khi các phi công họp mặt với nhau, Joyce – Armstrong lại hỏi với một nụ cười bid hiểm: ” Các bjan đã tìm thấy cái đầu của Myrtle chưa? ”
Một buổi tối sau bữa ăn tại câu lạc bộ của trường huấn luyện phi công tại Salisbury, ôn đã gây ra một cuộc tranh luận về đề luận sau đây: Trong các sự hiểm nguy đối với các phi hành gia thì cái nào là lớn nhất và thường xảy ra nhất? Sau khi đã nghe các ý kiến được phát biểu về các lỗ hỗng trong không khí, các khiếm khuyết trong việc chế tạo, các trận bảo tố, ông nhún vai từ chối không đưa ra ý kiến riêng của ông. Nhưng ông cho thấy rằng nó hoàn toàn khác với những gì mà ông vừa được nghe.
Thiết tưởng không phải là vô ích để nói rằng một ngày sau khi ông mất tích người ta phát giác ra rằng ông đã thu xếp các công việc của ông đâu vào đó với một sự tỉ mỉ cho phép ta tin rằng ông đã linh cảm được sự cáo chung đang chờ đợi ông.
Nhưng sự chỉ dẫn tiên khởi này rất cần thiết. Bây giờ tôi xin chuyển dịc một cách thật đúng câu chuyện như nó đã được ghi bắt đầu từ trang ba của quyển sổ tay bị dính máu.
”....Tuy nhiên, khi tôi ăn bữa tối ở Reions với Cosetli và Gustave Roymond, tôi phải nhận thấy rằng không có người nào ý thức được sự hiện hữu của một mối nguy hiểm đặc biệt trên những tầng cao của khí quyển, tôi không nói rõ hết với họ những điều tôi suy nghĩ trong đầu óc tôi, nhưng tôi dùng cách nói bóng gió và nếu họ có những ý nghĩ tường đồng với ý nghĩ của thôi thì hẳn họ đã phát biểu chúng ra. Hỡi ôi, hai anh chàng kiêu căng ngu xuẩn này không nghĩ tới điều gì khác hơn là thấy tiên họ được in trên báo. Tôi đã chú tâm ghi nhận rằng cả hai anh chàng đó không người nào đã bay lên cao quá bảy ngàn, bảy ngàn năm trăm mét, chắc chắn là phải ở trên độ cao đó thì phi cơ mới đi vào vùng nguy hiểm ( luôn luôn giả thiết rằng những giả thuyết của tôi là đúng )?
Đã hơn hai mươi năm trời con người bay trên phi cơ? Nếu có ai hỏi tôi rằng tại sao mãi cho tơi ngày nay hiểm họa này mới tự phát hiện, câu trả lời sẽ thật đơn giản. Vào thời những động cơ khiêm nhường khi người ta ước tính rằng động cơ 100 mã lực Gnome hay Green là đủ để đáp ứng tất cả mọi nhu cầu, các phi cơ đã không thể vượt quá những gứoi hạn nào đó. Bây giờ, các động cơ 300 mã lực đã là quy luật chớ không phải là ngoài lệ nữa và những chuyến bay trên những tầng cao của khì quyển đã trở nên dễ dàng hơn, thông thường hơn, một vài người trong bạn chúng ta nhờ lại rằng, khi chúng ta còn trẻ trung Garros đã lừng danh khắp thế giới khi đjat tới độ cao sáu ngàn mét và việc bay bên trên núi Alpes được coi là một thành tích hết sức ghê gớm. Từ đó mức trung bình của chúng ta đã cãi tiến một cách đáng kể và đã có hai mươi chuyến bay lên tới độ cao mà xưa kia chỉ có một chuyến. Thật thế,phần lớn các chuyến bay đã được thực hiện với sự an toàn tuyệt hảo và những độc cao mười ngàn mét đã được đạt tới nhiều lần mà không gặp những trở ngại nào khác ngoài cái lạnh và sự nghẹt thở. Nhưng sự kiện này đã chứng tỏ điều gì? Một người khách lạ sẽ có thể xuống hành tinh chúng ta hàng ngàn lần mà không bao giờ nhìn thấy một con cọp. Tuy nhiên, những con cọp vẫn hiện hữu và nếu vì rủi ro vị khách của chúng ta hạ chân xuống trong rừng già, ông có thể bị nhai ngấu nghiến. Ở trên thượng tầng không khí cũng có những rừng già, nơi cư ngụ của những loài còn khủng khiếp hơn là cọp. Tôi tin rằng sẽ có lúc những rừng già này sẽ được thông bào một cách chính xác trên những bản đồ. Cho tới bây giờ có thể định vị được hai khu rừng già đó, một khu ở bên trên vùng Pau-Biarritz nước Pháp. Một vùng khác ở bên trên đầu tôi trong khi tôi đang viết tại phòng tôi trên chiếc Wiltshire. Tôi tin một cách đầy đủ là có một khu rừng thứ ba ở vùng Wiesbaden.
Chính một vài vụ án mất tích của các phi hành gia đã tạo cho tôi ý nghĩ về các khu rừng già này, chắc chắn là người ta thường nói rằng họ bị rớt xuống biển, nhưng sự giải thích này không làm tôi thỏa mãn chút nào. Trước hết đã có Verrier ở Pháp, phi cơ của ông đã được tìm thấy ở gần Bayonne, nhưng không bao giờ người ta phát hiện ra xác ông. Cũng còn có trường hợp của Baxten người đã mất tích, mặc dù động cơ của ông và một vài mảnh sắt vụn đã được nhận dạng trong một cánh rừng ở Laicesternhire. Bác sĩ Middleton ở Ameabury, người đã theo dõi chuyến bay với kính đeo mắt, đã khai rằng ngay trước khi những đám mây làm tối mù mục trường của ông, ông nhìn thấy phi cơ ở một độ cao khá lớn bỗng nhiên lồng lên theo chiều thẳng trong một loạt rung lắc với một sức mạnh cuồng bạo không thể tưởng tượng được. Đó là hình ảnh cuối cùng được ghi nhận về phi cơ của Baxtẻ. Sau đó còn nhiều trường hợp tương tự khác, rồi tới cái chết của Hay Connor. Đã có bao nhiêu lời nói dông dài vô ích về sự bí ẩn không được làm sáng tỏ này. Đã có bao nhiêu cột trong các báo cáo nhưng người ta đã cố tránh không đi sâu vào các sự việc. Ông ta đã xuống bằng lối bay là là từ độ cao không ai biết rỏ. Ông ta đã không thoát khỏi phi cơ, ông ta đã chết trên ghế ngồi. Ông ta chết vì cái gì mới được chứ? ” Đau tim ” các y sĩ trả lời như vậy. Vô lý! Tim của Connor cũng mạnh khoẻ như tim của tôi. Venables đã khai báo thế nào? Venables là người duy nhất ở cạnh ông ta khi ông ta chết. Ông xác nhận rằng Hay Connor bị lắc lư vì những cơn run rẩy và ông ta có vẻ kinh hoàng ” Chết vì sợ hãi ”. Venables nói vậy mà không thể tưởng tượng nổi cái gì đã làm ông ấy sợ hãi. Connor chỉ nói thì thào với Venables có một tiếng. Một tiếng giống như ”quái dị ”trong cuộc điều tra không ai có thể hiểu rõ cái chữ ”quái dị ”này chỉ định vào cái gì. Tôi,tôi có thể sẽ hiểu được nó chỉ định vào cái gì! Những con quái vật! Đó là tiếng nói cuối cùng của Harry Hay Connor xấu số! Và thực tình ông đã chết vì sợ hãi. Venables nói đúng.
Rồi thì lại cái đầu của Myrtle. Bạn có thực sự tin rằng ( Có người nào đó thực sự tin ) một cái đầu người ta lại có thể hoàn toàn thụt vào sâu cái mình sau khi bị rơi từ trên cao xuống không? Tôi, dù thế nào đi nữa, không bao giờ tôi tin vào lời giải thích cho vụ Myrtle. Va vết mỡ trên quần áo ông ấy ” Quần áo dính dầu mỡ ”, một người nào đó đã khai trong cuỗ điều tra, thật lạ lùng khôngcó ai chịu suy nghĩ về chuyện này! Tôi thì tôi đã suy nghĩ quả thực tôi đã suy nghĩ từ lâu rồi. Tôi đã làm thử ba lần ( Và Dagerfield trêu chọc tôi vì tôi đã mang theo súng săn!) nhưng tôi không lên đủ độ cao. Bây giờ, với chiếc Paul Wroner mới, nhẹ và động cơ Rubur 175 mã lực của nó. Ngày mai tôi sẽ phải đạt một cách dễ dàng tới độ cao 10.000 mét. Tôi sẽ làm thử kỷ lục. Có thể là tôi cũng sẽ làm thử với tử thần!...Tôi không phủ phận nguy hiểm, nhưng nếu một người muốn tránh hiểm nguy thì ông ta chỉ có việc thôi đừng bay nữa và sống suốt đời với lối đi giày vải và mặc đồ ngủ thôi- Ngày mai tôi sẽ thám hiểm khu rừng già trên không gian. Nếu có chuyện gì trong đó thì tôi sẽ biết. Nếu tôi trở về được tôi sẽ trở thành một nhân vực lừng danh, một ngôi sao sáng. Nếu tôi không trờ về được, cuốn sổ tay này sẽ chứng nhận những gì tôi định làm và tôi đã chết như thế nào, trong khi thử làm việc đó. Nhưng cầu ơn trên ban phước lành, không có chuyện lẩm cẩm về một ” tai nạn ” hay một sự ” bí ẩn ”.
Tôi đã chọn chiếc phi cơ một tầng cánh Paul Veroner để dùng trong công việc nhỏ mọn này. Chỉ cần chiếc phi cơ một tầng cánh này như thế khi người ta thực sự muốn thành công trong một việc gì. Ông Beaumont đã nhận ra việc này ngay từ lúc đầu. Chẳng hạn sự ẩm ươt không ảnh hưởng gì tới nó, mà thời gian hiện tại cho ta thấy trước rằng ta sẽ luôn luôn bay trong những đám mây. Đây là một loại phi cơ nhỏ, xinh xắn dễ điều khiển như một con ngựa non dưới tay tôi. Động cơ của nó là máy Rubur mười si lanh sức mạnh 175 mã lực. Phi cơ được trang bị những dụng cụ tấn tiến nhất của kỷ thuật; thân máy bọc thép, các bánh xe để hạ canh có vòng cong cao bộ thắng mạnh, những bộ phận ổn định hồi chuyển, ba tốc độ các bình diện theo nguyên tắc những tấm sáo có lá sách di động. Tôi có mang theo một khẩu súng săn và hơn một chục viên đạn chì lớn chắc các bạn đã thấy cái đầu của Perkins, anh thợ máy già của tôi, khi tôi nhờ anh ấy để súng đạn vào trong phi cơ. Tôi mặc quần áo theo kiểu nhà thám hiểm Bắc Cực, với hai áo len dài tay có cổ cao bên trong bộ đồ bay của tôi, những đôi tất dầy bên trong đôi ủng lót lông, một mũ kết có vành và cặp mắt kính bằng mi ca. Ra bên ngoài, gần những xưởng phi cơ, tôi bị nghẹt thở nhưng tôi muốn bay lên vượt khỏi độ cao của đỉnh Hy Mã Lạp Sơn, nhất định là tôi phải mặc y phục thích hợp, Perkins có vẻ nghi ngại một điều gì và anh năn nỉ tôi cho anh ta theo. Nếu tôi sử dụng phi cơ hai tầng cánh, có thể tôi đã phải ưng thuận lời yêu cầu của anh, nhưng với phi cơ một tầng cánh mà ta muốn có tốc độ tối đa để vọt lên cao thì chỉ là công việc của một người thôi. Dĩ nhiên là tôi mang theo một bong bóng dướng khí, một phi hành gia muốn thử lập một kỷ lục bay cao mà không mang theo dướng khí thì sẽ chết cóng hay chết ngộp hoặc bị cả hai sự tệ hại chồng chất lên.
Trước khi vào chỗ ngồi tôi đã kiểm soát các hành trình. Khi đã hài lòng với sự kiểm tra của tôi, tôi mở máy và cho chạy một cách êm đềm, tôi cất cánh ở số một, tôi bày hai vòng quanh bãi đâu để làm cho động cơ nóng lên đôi chút. Sau khi vẫy tay tôi chào tạm biệt Perkins và những người khác. Tôi vọt đi và xả hết sức máy. Phi cơ trườn đi trong gió như một con nhạn trong khoảng độ mười lăm cây số. Tôi hướng mũi nó lên cao và bắt đầu leo lên, vạch thành một vòng tròn xoáy trên ốc lơn hướng vào những đám mây dầy đặc. Điều tối quan trọng là phải lên cao một cách thong thả để thích ứng với áp lực của không khí.
Thời tiết nặng nề và oi nóng đối với một ngày tháng 9 nước Anh. Trời có vẻ muốn mưa. Từng cơn gió một từ phía tây nam thổi tới; một trong những cơn gió này đã ậo tới lúc tôi không đề phòng và đã đẫy tôi bay trệch đường một cách phủ phàng. Tôi nhớ lại lúc mà những cơn gió và những lỗ hỗng không khí đã trở thành những nguy hiểm nghiêm trọng vì các động cơ của chúng ta không đủ sức mạnh. Ngay lúc tôi bay tới các tầng mây thì trời bắt đầu mưa; đồng hồ đo độ cao của tôi chỉ một ngàn mét. Trời ơi! Trận mưa lớn lắm sao! Mưa đập lốp bốp vào cánh phi cơ, tát vào mặt tôi gần như roi quất làm mờ kính mắt của tôi, tôi gần như không còn thấy gì nữa, mưa làm cản trở tốc độ trung bình của tôi, nhưng biết làm thế nào? Trong lúc tôi vọt lên cao, nó trở thành mưa đá và tôi phải tìm cách đi vòng qua nó, một trong các si lanh của tôi không hoạt động được nữa; chắc chắn là một bu gi đã bị đóng cặn, tuy nhiên tôi vẫn có thể tiếp tục leo lên không mật một chúc sức mạnh nào. Chỉ ít lâu sau đó, sự bực bội về máy móc của tôi đã chấm dứt và tôi lại nghe thấy tiếng nổ đều đặn, ròn rã của mười si lanh cùng háy lên trong một tiếng hài hoà tuyệt diệu. Đây là công việc của phép lạ của máy hãm thanh hiện đại của chúng ta, rút cục ta đã có thể kiểm soát được các động cơ của chúng ta bằng tai. Khi chúng không quay một cách đều đặn, làm như chúng thét lwn, chúng cự nự chúng thổn thức! Thời xưa tất cả những tiếng kêu cứu đó đều mất đi, bị chìm ngập vào tiếng ồn ào dữ dội của động cơ. À, giá mà những bạc tiên phong của ngành hàng không có thể sống lại để nhìn thấy sự hoàng hảo về cơ giới là thứ đã được mua bằng giá mạng sống của họ.
Khoảng chín giờ rưỡi tôi tới sát gần những đấm mây. Bên dưới chân tôi chỗ nào cũng mịt mù trong mưa. Cánh đồng Salíbủy chạy dài bao la: năm sáu chiếc phi cơ chậm dãi bay ở độ cao ba hay bốn trăm mét, người ta có thể nói đó là những con chim sẽ. Tôi có cảm tưởng rằng họ đã tự hỏi tôi đang làm gì trong những đám may. Đột nhiên một tấm màn xám được chắng ra bên dưới tôi buồn bã, nhưng tôi đã thắng được trận mưa đá và thế là đã thắng nhiều rôi, mây cũng u ám và dày đặc như sương mù ở London. Vì mong muốn ra khỏi mây mà tôi kéo cần tốc độ chô tới khi chuông báo nguy tự reo lên. Tôi bắt đầu thấy giật lùi, những cánh đồng ướt sũng làm cho tôi nặng thêm hơn là tôi đã nghĩ, nhưng rồi tôi cũng tới được một vùng mây đỡ dày đặc hơn, rồi tôi lên được một lớp mây thứ hai màu trắng đục, lổng phổng như bông đang chờ tôi ở độ cao bên trên đầu tôi, nó làm thành một cái sàn màu đen nhẵn thín được trãi dài ra, giữa hai cái trần và sàn chiếc phi cơ một tầng hai cánh của tôi đang bay tới giữa trời. Trong khoảng cách không gian bao là này, người ta cảm thấy một đàn thủy điểu bay thẳng hàng về hướng Tây, tôi thú thực rằng sự hiện diện của chúng làm tôi vui thích, tôi nghĩ rằng đó là những con mồng két, nhưng tôi là một nhà động vật học hạng tồi. Bây giờ con người đã hóa thành những con chim, ta phải học để nhận ra những người anh em của chúng ta ngay khi vừa nhìn thấy.
Bên dưới chân tôi, gió khuấy động cái cánh đồng mây rộng lớn. Vào một lúc nào đó, nó gây ra mọt sự xáo trộn dữ dội, khơi ra một cái hố sâu và qua lỗ hổng cái ống khói của nó. Tôi nhìn thấy mặt đất, một chiếc phi cơ lớn màu trắng đang bay rất thấp, chắc chắn đó là chuyến bay thường xuyên buổi sáng Bristol – London. Rồi cơn lốc lại bắc đầu xoay sang hướng khác và tôi lại cảm thấy sự cô quạnh của tôi. Sau lúc mười giờ ít lau, tôi tiếp cận với cái vành phía dưới của tầng mây bên trên, những lớp mây này là hơi nước nhẹ, trong lờ mờ đang thông thả trôi về hướng đông. Sức gió tăng lên một cách đều đặn, nhiệt độ đã rất lạnh, mặc dù cao độ kế của tôi mới chỉ có ba ngàn mét. Động cơ quẫy đều đặn một cách đáng khen, mây đã dày đặc nhiều hơn là điều tôi ước tính, nhưng cuối cùng cũng mỏng manh đi thành một đám sương màu vàng và tôi được tiếp đón bởi một bầu trời hoàn toàn trong trẻo và một vầng mặt trời rực rỡ. Bên trên đầu tôi, chỉ toàn là màu xanh và vàng, ở phía dưới toàn là bạc lóng lánh. Đã mười giờ mười lăm phút, cây kim của khí áp biểu chỉ bốn ngàn hai trăm mét, tôi tiếp tục cuộc lên cao, hai tai lắng nghe tiếng nổ đều đều của động cơ, hai mắt luôn luôn nhìn vào đồng hồ, kim chỉ vòng quay, mức độ ét xăng, bộ phận bơm nhót không có gì đáng ngạc nhiên khi các phi hành gia được coi là những người không sợ hãi điều gì họ phải nghĩ tới quá nhiều việc khiến họ không có thì giờ để nghĩ tới chính mình chính vào lúc đó mà tôi nhận thấy rằng một cái địa bàn ít đáng tin vậy khi người ta vượt qua một độ cao nào đó bên trên mặt đất, may măn thay, mặt trời và gío đã cho tôi những toạ độ chính xác.
Tôi hy vọng tìm thấy một sự yên tĩnh vĩnh hằng trong khi cứ bay trên cao mãi, nhưng càng lên cao thì bão tố càng tăng thêm một cách cuồng bạo. Chiếc phi cơ một tầng cánh của tôi rên rỉ, run lên tới tận mọi con ốc của nó, chao đảo như một tờ giấy khi tôi muốn chuyển hướng. Nó lướt nhanh hơn trong gió, có lẽ không có một con người nào đã từng bay nhanh như vậy. Tôi phải luôn luôn giữ phi cơ cho thẳng và bay vát ngọn gió, vì tôi không chỉ có tham vọng riêng về kỷ lục độ cao: theo cách tính toán của tôi khu rừng già trên không trung toạ lạc ngay bên trên khu tiểu Wiltshire nếu tôi chinh phục các tầng cao của khí quyển ở những nơi khác, tôi sẽ mất hết kết quả cố gắng của tôi.
Vào khoảng giữa trưa tôi đạt tới sáu ngàn mét. Gió quá bạo cuồng khiến tôi phải lo lắng nhìn vào những sợi dây ở cánh phi cơ của tôi. Lúc nào tôi cũng tưởng là sẽ thấy chúng giãn ra hay đứt hẳn. Tôi đã tháo cái dù ở đằng sau và móc nó vào cái khoen ở đây lưng tôi ngõ hầu đề phòng điều tồi tệ nhất! Chính vào những lúc như thế này mà một việc làm vội vã, cẩu thả của một anh thợ máy có thể làm mất mạng một phi công! Nhưng phi cơ đã chống chỏi một cách dũng cảm, những dây và những bộ phận chống đỡ của nó kêu o o và run lên như là những sợi dản vậy. Tuy nhiên, tôi cũng kinh ngạc là bất chấp những sự va đập và lay động của gió đánh vào nó làm thế nào mà nó vẫn theo đuổi được sứ mạng chinh phục bầu trời của nó. Phải có một cái gì thàn thánh trong con người để anh ta lên tới cao như thề này bên trên những giới hạn mà hình như tạo hoá đã ấn định cho con người. Và để cho con người lên cao nhờ vào sự kế tục vô tư lợi, dũng cảm này mà sự chinh phục không gian đã chứng tỏ, người ta nói tơi sự sa đoạ của con người! Đến khi nào một câu chuyện tương tự thế này mới được viết vào sách biên niên của nòi giống chúng ta?
Với những ý nghĩ đó trong đầu tôi cứ luôn luôn thúc đẩy phi cơ của tôi lên cao hơn nữa, những cơn gió lúc thì quất vào mặt lúc thì rít lên sau tai tôi. Giải bình nguyên những đám mây phía dưới tôi đã lùi xa, những chỗ nhấp nhô, phập phồng màu bạc của nó đã rộn lên lộn vào một mặt bằng phẳng sáng rực rỡ, chắc chắn là tôi đã là nạn nhân của một sự thăng trầm chưa bao giờ có, chắc chắn là tôi đã biết người ta bị nguy hiểm thế nào khi ở trong tình trạng mà các ông bạn láng giềng ở phía bên kia biển Manche gọi là một cơn lốc, nhưng tới một mức độ như thế nào thì tôi chưa từng thấy bao giờ. Cái luồng gió khủng khiếp này có thể quét sạch tất cả. Mà hình như ngay trong lòng nó còn có những sự xao động cũng khủng khiếp như chính nó nữa. Không có một điềm báo trước nào, tôi bị cuốn một cách tàn bạo vào một trong hai sức mạnh đó trong một hay hai phút tôi đã quay tròn với một tốc độ làm tôi suýt nữa ngất đi. Rồi tôi bị rơi vào xuống, cạnh bên trái xuống trước, cái lỗ hỗng của ống khói chính khoảng chân không mà tôi rơi xuống mà không bị thứ gì cản trở cả, như một hòn đá, trong gần 300 mét, tôi còn ngồi được trên ghế là chỉ nhờ vào cái dây lưng của tôi thôi. Sự rung chuyển làm tôi nghẹt thở và xỉu đi nửa tỉnh, nửa mê trên thành của thân phi cơ, nhưng ( và đây chính là đức tính của một phi hành gia trong tôi ) bao giờ cũng đủ triển khai những nỗ lực siêu phàm. Tôi nhận thấy rằng tốc độ rơi xuống của tôi là một ống khói viên hình trụ. Và tôi tiến gần tới đỉnh cao của hình chóp này, phải chịu đựng một sức xoắn vặn ghê gớm. Bằng cách dồn tất cả trọng lực của tôi vào một bên, tôi lấy thăng bằng lại cho dôi cánh và giành lại sự điều khiển phi cơ để bay ra khỏi chỗ xáo trộn. Bị te tua nhưng đắc thắng, tôi lại kéo cần lái và lại bắc đầu leo lên cao. Lúc một giờ chiều, tôi đã ở bảy ngàn mét bên trên mức mặt biển, tôi hết sức mãn nguyện là tôi đã tới chỗ bên trên cơn bão tố, tôi càng lên cao thì không gian càng yên tĩnh. Ngược lại, trời rất lạnh và tôi bắt đầu thấy cảm, thấy nôn mửa đặc biệt thường đi kèm với sự loãng không khí của tôi và trong những khoảng cách đều đặn. Tôi hít chất hơi thần diệu này, tôi cảm thây khoan khoái gần như say sưa. Tôi kêu lên, tôi ca hát trong khi vạch ra những quỹ đạo của tôi trong bầu trời băng giá.
Tôi tin chắc rằng sự thất bại mà Glaisher và ở một mức độ thấp hơn, Coxwell đã là nạn nhân khi vào năm 1892 họ dùng kinh khí cầu lên tới độ cao mười ngàn mét bị gây ra bởi sự mau lẹ quá sức mà sự vọt thẳng lên cao bằng khinh khí cầu đã thực hiện. Khi ta lên cao theo một giác độ vừa phải và ta tậo làm quen dần với sự suy giảm của áp suất không khí thì ra sữ tránh được loại khó khăn đó. Về phần tôi ở một dộ cao tương đương, tôi nhận thấy rằng ngay dù không có bình dưỡng khí tôi cũng vẫn có thể thở mà không có sự khó khăn quá quắt. Tuy nhiên csi lạnh trở nên dữ dội, nhiệt kế của tôi chỉ mười tám độ âm. Lúc một giờ rưỡi chiều tôi ở khoảng gần mười một ngàn mét bên trên địa cầu và tôi cứ tiếp tục leo lên một cách đều đặn. Tuy nhiên không khí lỏng loãng nâng đỡ cặp cánh của tôi không được như trước và giao độ cao của tôi bị sút giảm một cách đáng kể. Tôi biết rằng ngay với một phi cơ nhẹ như thế này và một động cơ cực mạnh tôi cũng sẽ sắp sửa đạt tới tột đỉnh của tôi. Lại có sự rủi ro: một bugi dở chứng, động cơ của tôi bắt đầu trục trặc.
Trong lúc tôi đang lo sợ một sự thất bại thì một việc hoàn toàn kỳ dị diễn ra. Một vật bay vược qua tôi, tiếng kêu ù ù và nhả khói ra ở phía sau rồi nổi lên trong một tiếng rít lơn ở giữa một đám may hơi nước. Tôi bị sững sờ trong một lúc. Rồi tôi nhớ lại rằng trái bất đã bị bắn phá một cách liên tục bởi những vân thạch này không hoá thành hơi nước khi chúng chạm tới những tầng cao của khí quyển. Đây là một hiểm hoạ mới cho những tay tài tử của không gian, vì có hai vân thạch khác bay gần tôi khi tôi tới độ cao mười hai ngàn mét. Ở chỗ ranh giới vỏ bọc trái đất, hiểm hoạ chắc phải rất lớn và rất thực tại.
Kim áp kế của tôi chỉ mười hai ngàn ba trăm mét khi tôi biết rằng sẽ không thể bay lên cao hơn nữa. Về thế lực tôi sẽ có thể chịu đựng được một cố gắng nữa, nhưng phi cơ của tôi đã đạt tới giới hạn của nó rồi. Không khí lỏng loãng không còn nâng đỡ một cách đầy đủ cặp cánh của tôi: Khi hơi nghiêng đi một chút phi cơ đã chúc cánh xuống và không chịu theo sự điều khiển nữa. Có lẽ nếu động cơ không lộn xộn thì tôi đã lên thêm được ba bốn trăm mét nữa. Nhưng những tiếng nổ sì hơi mỗi lúc một nhiều thêm và tôi thấy hình như trong mười si lanh thì hai cái đã bị liệt. Nếu tôi chưa ở khu vực mà tôi tìm kiếm thì nhất định lúc này tôi không thể nào bay lên tới nơi được! Nhưng tôi đã chẳng lọt vào khu vực đó rồi sao? Vạch ra những vòng tròn và bay lượn như một mình và với cặp ống nhòm tôi quan sát một cách cẩn thận vùng chung quanh. Bầu trời quang đãng một cách tuyệt mỹ. Không có gì để cho ta dự đoán sự hiện hữu của những hiểm nguy mà tôi e ngại.
Tôi đã nói rằng tôi bay lượng trong khi vạch ra những vòng tròn. Tôi nghĩ rằng tôi đã đạt kết quả mỹ mãn hơn nhiều khi thăm dò một vùng rộng lớn hơn, một người thợ săn vào một trong những rừng già trên trái đất mà lại không đi xuyên từ đầu này tới đầu nọ của khu rừng đó với hy vọng phát hiện ra con mồi hay sao? Mà theo sự suy đóan của tôi, khu rừng già trong không gian mà tôi nhắm tới chắc chẳng phải toạ lạc nơi nào đó bên trên trái đất Wiltshire, nghĩa là phía Tây Nam của tôi. Tôi thực hiện một sự chồm lên theo sau mặt trời, vì địa bàn đã hỏng và tôi không còn phân biệt được trái đất nữa. Tôi lao về hướng đã chọn. Bay thật thẳng, vì tôi đã tính rằng chỉ còn đủ ít xăng cho một giờ nữa thôi. Nhưng tôi muốn chơi ngông là chạy cho tới cạn giọt xăng cuối cùng. Vì một lối bay lượng là là tuyệt diệu sẽ đưa tôi trở lại mặt đất không khó khăn gì.
Bỗng nhiên tôi cảm thấy một cái gì mới lạ. Trước mặt tôi, không khí đã mất sự trong sáng của pha lê, nó chứa đựng những hình thù dài xoắn xoeo của một chất gì mà tôi chỉ có thể so sánh với luồng khói rất mỏng của thuốc lá, những tràng những vòng của chúng lăn đi một cách chậm chạp trong ánh sáng mặt trời. Khi chiếc phi cơ một tầng cánh xuyên qua cái chết lạ hoắc đó. Tôi thấy trên môi có một vị mơ hồ của dầu nhớt và cái sả của phi cơ phủ đầy một thứ bọt của chất mỡ. Một chất mỡ hữu cơ vô cùng vi tế hình như đang lơ lững trong khí quyển. Có phải đó là đời sống không? Cái chất mỏng manh, thô sơ này kéo dài ra hàng nhiều mẫu tây rồi bươm tua vào khoảng hư không, đó không phải là thuộc về đời sống! Nhưng có thể là những dấu vết của đời sống, món ăn của một đời sống cổ quái? Chất mỡ đơn sơ của đại dương chính là món ăn của con cá voi dũng mãnh. Tôi còn đang nghĩ ngợi việc đó thì khi nhìn lên tôi rất thích thú thấy một điều hoàn toàn độc đáo. Liệu tôi có hy vọng thuật lại với các bạn đúng như nó đã xuất hiện trước tôi hôm thứ ba trước không?
Các bạn hãy tưởng tượng một con sứa như ta từng thấy tại các biển vùng nhiệt đới, có hình thù cái chuông nhưng tầm vóc cực lớn! Theo tôi thấy thì lớn hơn vòm nhà thờ Saint Paul, nó có màu hồng đạm với những vân xanh nhạt, nó có một khí chất rất vì tế khiến nó có vẻ chỉ như một hình thù huyền ảo trên nền trời màu xanh rủ xuống lòng thòng, lúng liếng một cách chậm chạp từ phía sau và từ phía sau ra phía trước, làm trọn vẹn hình thể của nó. Cái ảo ảnh huy hoàng này diễn ra trên đầu tôi với một vẻ uy nghi thầm lặng nhẹ nhàng và mong manh như một cái bọt xà bông. Nó tiếp tục một cách đường bệ con đường của nó.
Tôi đổi hướng phi cơ để nhìn nó rõ hơn, nhưng bổng chốc tôi phát hiện ra rằng tôi đang bị bám quanh bởi toàn những sinh vật như vậy, với những tầm vóc một trái banh cỡ trung bình. Cách cấu tạo sinh đẹp và màu sắc của chúng làm tôi nhớ tới hàng thủy tinh của Venise. Màu hồng và màu xanh lá cây nhạt là những màu chủ yếu, nhưng chúng trở thành lóng lánh đủ màu khi mặt trời nở rộ với những hình thù mảnh mai của chúng. Hàng trăm con đã lướt qua gần tôi như vậy. Hình thù và thể chất của chúng đã hoà hợp một cách quá hoàn hảo với sự tinh khiết của những độ cao này khiến ta không thể nào hình dung được một thứ gì đẹp đẽ hơn.
Nhưng rồi sự chú tâm của tôi lạii bị thu hút bởi một hiện tượng khác: những con rắn của ngoại tầng không gian, các bạn hãy tưởng tượng ra những cái ống dài, mỏng manh, kỳ ảo bằng một chất gì nom giống như hơi nước. Chúng quay lộn vặn vẹo mình với một tốc độ không thể ngờ được, mắt ta khó có thể thưo kịp sự biến hoá của chúng, một vài con trong những con vật ma quái này có thể dài tới tám hay mười mét, nhưng thật là bực bội khi muốn ước lượng đường kính của chúng như sương mù và hình như tan loãng trong không khí. Những con rắn không gian này có một màu xám rất sáng ở phía trong có rạch những đường sậm hơn khiến ta có cảm tưởng rằng chúng là những sinh vật thực tại. Một con trong bọn chúng vờn qua mặt tôi. Tôi cảm thấy chạm phải một vật gì lạnh và ẩm ướt, chúng không có vẻ gì là vật thể cả, khiên tôi tuyệt nhiên không nghĩ tới một nguy hiểm nào về thể chất có thể xảy ra khi quan sát chúng gần như vậy. Hình thù của chúng cũng thiếu sự vững chắc như đám bọt của một ngọn sóng khi tan vỡ.
Một kinh nghiệm khủng khiếp hơn được dành cho tôi. Từ trên một độ rất cao lao xuống, một vệt hơi nước màu tía lúc đầu tôi tưởng là nhỏ, nhưng nó lớn lwn rất mau khi tớigần tôi. Mặc dù được cấu tạo bởi một thứ chất liệu trong vắt nom giống như băng, nó vẫn có một hình thù rất rõ rệt và một sự đông đặc chắc hơn những thứ mà tôi đã nhìn thấy cho tới lúc này, tôi cũng nhận ra những dấu vết rõ hơn một thứ sinh vật có thể chất. Đặc biệt là hai tấm hình trònkhá rộng, có đóng rợp ở mỗi bên, có thể là những con mắt và giữa hai tấm đó có một vật gì màu trắng, rất vững chãi nho hẳn ra ngoài và cũng cong lại nữa, có vẽ cũng hung dữ như cái mỏ của một con diều hâu.
Toàn thể dáng dấp của con quái vật này thật ghê gớm, đáng sợ. Nó luôn luôn thay đổi màu sắc, chuyển từ màu tím nhạt sáng sủa sang màu đỏ tối sẫm ghê người. Tôi không thể phủ nhận khối thể chất của nó vì nó đã giọi ra một cái bóng khi nó len vào giữa mặt trời và phi cơ. Ở khoảng cong phía trên của mình nó có ba cái bướu lớn mà tôi không biết mô tả thế nào hơn là so sánh chúng với những chỗ da phồng cực lớn. Tôi nghĩ rằng chúng chứa đựng một thứ hơi cực nhẹ dùng để chống đỡ cái khối lượng không hình thù gì và nữa đặc loãng này trong bầu không khí loãng lỏng. Di chuyển một cách nhanh nhẹn, con quái vật đi theo tốc lực chiếc phi cơ một tầng của tôi không cần sự cố gắng nào, trong khoảng độ ba chục cây số bay là là bên trên tôi giống như con chim săn mồi đang sửa soạn nhào xuống nạn nhân của nó. Muốn tiến lên, cách thức của nó là tung ra phía trước một vật gì như một cái ống dài loãn xoãn, bày nhầy, để rồi hình như cái ống này lôi kéo phần còn lại của thân mình. Nó rất chun dãn, có rất nhiều chất dính nên không bao giờ nó giữ nguyên một hình dáng trong hai phút liền, nhưng mỗi sự biến đổi hình dạng lại làm cho nó càng đáng sợ hơn, càng khủng khiếp hơn.
Tôi biết nó là kẻ thù của tôi, mỗi bộ phận đỏ ửng của thân mình nó đề nói lên sự thù hận của nó, những con mắt lớn, không rõ ràng của nó không rời khỏi tôi. Nom chúng lạnh lẽo, tàn độc, bị xao động bởi một hận thù xuất tự tâm can. Tôi hạ thấp mũi phi cơ của tôi như một nhát roi. Khi va chạm phải động cơ nóng bỏng, tôi nghe thấy một tiếng rít sắc nhọn và cái vòi vọt trở lại như là do sự đau đớn bất thần. Tôi muốn nhào thẳng xuống, nhưng một cái vòi lại đâm xuống phi cơ. Cánh quạt đã cắt nó với một sự dễ dàng như cắt một cuộn khói vậy. Một cái ống dài dính vào một cái bể mặt nhẵn lì như nhựa, xé rách nó và tôi được giải thoát nạn trong một lát; nhưng ngay tức khắc một cái ống khác lại quấn vào chân tôi với một sự hung hãn phía sau.
Trước sự tấn công này, tôi nhả đạn cả hai nòng súng của tôi. Đúng là tôi cũng giống như một người đi săn và tấn công con mồi mình bằng chiếc ống sì đồng (ống thổi bắn các viên tròn bất để giết loài chim nhỏ ) nhỏ bé. Làm sao tôi có thể hy vọng rằng một thứ vũ khí của con người mà làm tê liệt được một tiếng nổ vang một trong những viên đạn chì của tôi. Tôi đã đoán đúng: các bướu này căng phồng lên hơn vì khí hơi. Thật sự kẻ thù của tôi đã lăn trên phía bên, vặn vẹo một cách tuyệt vọng để lấy lại thăng bằng cho nó, cái mỏ trắng há ra và gõ lộp bộp vì điên dại, nhưng tôi đã thực hiện một lối nhào thẳng xuống liều lĩnh nhất mà tôi có thể làm thả hết ga. Nói một cách khác, tôi đã rơi xuống theo đúng nghĩa đen của từ, như một cục vân thạch. Từ phía xa đằng sau tôi một vệt đỏ từ từ thu nhỏ lại một cách nhanh chóng, rồi tan lẫn vào màu xanh của nền trời. A! Tôi đã hoàn toàn vô sự thoát khỏi khu rừng già khủng khiếp này của ngoại tầng không gian.
Một khi đã ở ngoài tầm nguy hiểm, tôi đóng ga lại, vì không có gì làm hư hỏng một động cơ tệ hơn là bổ nhào xuống với tất cả sức mạnh của nó. Từ độ cao sấp sỉ mười hai ngàn mét tôi thực hiện việc lượn là theo hình xoáy trôn ốc, thoạt đầu cho tới lơp mây màu bạc rồi tới những đám mây đầy bão tố ở phía dưới và sau hết qua một đám mây mưa dồn dập, cho tới mặt đất. Khi trồi ra khỏi những đám mây, tôi nhìn thấy biển Manche bên dưới tôi, vì tôi còn lại được đôi chút ít xăng tôi vượt đi bộ ba chục cây số trong nội địa và tôi đáp xuống một cánh đồng, cách làng Ashcombe nửa cây số. Ở đó, tôi đi mua ba bình ét xăng. Lúc sáu giờ mươi phút buổi chiều tôi đạu xuống bãi Davizé của tôi sau một chuyến du hành mà không một người nào trước tôi trên trái đất đã đến.