watch sexy videos at nza-vids!
Bí kíp Tán đổ gái trong ngày 8/3 (^_'^:))
Sms xếp hình chúc ngủ ngon
XALO360.HEXAT.COM
THE GIOI GIAI TRI
•—◦—⊙—◦—• Bài thuốc dân gian chữa
phong thấp
Tác giả : BS. HOÀNG XUÂN ÐẠI
Khi thời tiết thay
đổi, nhất là vào
mùa mưa bão, những ai mắc
bệnh phong thấp sẽ rất khó
chịu vì đau nhức gân,
xương; mình mẩy, chân tay
rời rã, tê bại, dẫn đến ăn ngủ
kém sinh suy nhược. Việc
chữa trị căn bệnh này rất
nan giải. Y học hiện đại cho
rằng nguyên nhân sinh bệnh
là do các ổ vi khuẩn loại liên
cầu hoại huyết nhóm A cư
trú ở tai, mũi, họng gây nên
dị ứng nội sinh. Còn y học cổ
truyền cho đây là chứng
phong thấp nên nguyên tắc
chữa trị cần phải khu phong
hòa huyết, thông huyết - tán
hàn, trừ thấp, giảm đau,
thanh nhiệt, tiêu viêm, an
thần, đồng thời bổ can, thận,
bồi dưỡng khí lực để tăng
cường sức chống đỡ bệnh
tật cho cơ thể.
Bài thuốc dân gian chữa phong
thấp
Dựa vào cơ sở lý luận trên, bài
thuốc dân gian sau đây đã đạt
được yêu cầu ấy - bao gồm các
vị:
Sinh địa 20g, hà thủ ô 20g, cỏ
xước 12g, cốt toái bổ 12g, vòi
voi 10g, cốt khí 10g, phòng
đẳng sâm 20g, huyết đằng 12g,
hy thiêm 12g, bồ công anh 12g,
thiên niên kiện 10g, dây đau
xương 10g.
Công năng của từng vị có trong
bài thuốc
Vị sinh địa: (Rhizoma
Rehmanniae) là thân rễ phơi khô
của cây địa hoàng (Rehmannia
glutinosa Libosch "gaertn"), họ
hoa mõm chó (Scrophulariaceae),
có tác dụng bổ huyết, hòa huyết
và thông huyết - dùng chống
thiếu máu, suy nhược, ngoài ra
còn giúp lợi tiểu, mạnh tim.
Cây cỏ xước: (Achyranthes
bidentata Blume), họ dền
(Amaranthaceae). Ðược dùng
làm thuốc trị viêm khớp, lưng,
gối, xương đau nhức, làm tan tụ
máu; bổ can, thận.
Huyết đằng: (Caulis
sargentodoxae), bộ phận dùng
là thân cây huyết đằng phơi khô
(sargentodoxae cuneata "Oliv"
Rehd. et Wils), họ đại huyết
đằng (Sargentodoxaceae). Vị
đắng, tính bình. Có tác dụng trừ
phong, thống kinh lạc, lợi niệu,
sát khuẩn; Bổ huyết, hành
huyết, khỏe gân cốt - chủ trị tê
thấp, đau lưng, mình mẩy nhức
mỏi.
Vòi voi (Heliotropium indicum
Lin), họ tử thảo (Bonaginaceae),
dùng chữa tê thấp, thông kinh
lạc, hạ nhiệt, chữa mụn nhọt,
viêm tấy và làm tan tụ huyết.
Hà thủ ô (Radix Polygoni
multiflori), bộ phận dùng làm
thuốc gồm rễ, củ phơi khô của
cây hà thủ ô (Polygonum
multiflorum Thumb) thuộc họ
rau răm (Polygonaceae). Tác
dụng bổ huyết, trị thần kinh suy
nhược, làm khỏe gân cốt.
Bồ công anh (Lactuca Indica Lin),
họ cúc (Compositae). Có tính
chất sát khuẩn, tiêu viêm, hạ
sốt, an thần và bồi bổ.
Hy thiêm (Sieges beckia
orientalis L.), họ cúc
(Compositae). Thường dùng làm
thuốc chữa trị đau nhức xương,
trừ phong thấp, gân cốt nhức
lạnh, bán thân bất toại, lưng gối
tê dại.
Cốt toái bổ (Rhizoma Drynariae
fortunei), bộ phận dùng làm
thuốc gồm thân rễ cây cốt toái
bổ (Drynaria fortuei J-sm), họ
dương xỉ (Polypodiaceae), tính
khô, ôn bình, tác dụng chữa đau
xương, tán tụ máu, sát khuẩn,
giảm đau. Là vị thuốc hòa hoãn
và bổ thận, bồi dưỡng sinh khí.
Cốt khí (Radix Polygoni
Cuspidati). Bộ phận dùng là rễ
phơi khô của cây cốt khí
(Polygonumreynontria Makino).
Thuộc họ rau răm
(Polygonaceae). Tác dụng chữa
tê thấp, giảm đau do té ngã, bị
thương và lợi tiểu.
Dây đau xương (Tinospora
Sinensis Men) họ phòng kỷ
(Menispermaceae). Có tác dụng
chữa bệnh tê thấp, đau xương,
đau người - là vị thuốc bổ.
Thiên niên kiện (Rhizoma
Homalomenae), bộ phận dùng
làm thuốc gồm thân, rễ phơi khô
của cây thiên niên kiện
(Homalomenae aff sagittaefolia
Jungh), họ ráy (Araceae). Dùng
chữa tê thấp, bổ gân cốt, giảm
đau nhức - Thường dùng cho
người cao tuổi hay đau xương
khớp, mình mẩy. Thiên niên kiện
còn là vị thuốc bổ giúp kích
thích tiêu hóa.
Ðảng sâm (Radix codonopsis), vị
thuốc là rễ phơi khô của nhiều
loại codonopsis. Họ hoa chuông
(Campanulaccae). Người ta coi
đảng sâm có thể thay thế nhân
sâm - Là thuốc bồi bổ cơ thể,
tăng lực, chống thiếu máu, tiêu
đàm; bổ tì, vị, lợi niệu.
Như vậy sự kết hợp của mười
hai vị thuốc trên thật hoàn hảo,
đạt được lý luận của nguyên tắc
chữa trị bệnh phong thấp, luôn
hỗ trợ và tăng cường tác dụng
trị liệu với nhau.
Liều dùng
Phương thuốc trên tùy theo
hoàn cảnh, điều kiện của từng
bệnh nhân mà áp dụng. Thang
này có thể dùng dưới hai hình
thức như ngâm rượu hoặc sắc
uống.
* Nếu ngâm rượu: cứ 1 thang
thuốc trên cần ngâm với 1 lít
nước, tức 1.000ml rượu trắng
400, để trong 3 ngày lại thêm
500g (nửa cân) đường hòa tan
vào 500ml nước đun sôi để
nguội, đổ chung vào với rượu
đã ngâm thang thuốc trên. Mỗi
ngày uống 2-3 lần, mỗi lần từ
10-20ml trước lúc đi ngủ, uống
liên tục trong 1-2 tháng.
* Dùng thuốc sắc: Mỗi thang trên
cho vào 500ml nước đun nhỏ
lửa, đậy kín ấm đến khi cạn còn
khoảng 150-200ml thì ngừng
sắc. Gạn nước thuốc ra chia đôi,
uống mỗi lần 1/2 số nước đó,
uống nóng. Dùng liên tục từ
20-25 ngày.
—◦—⊙—◦—
Copyright © XaLo360 Mobile.All rights reserved.XALO360
Gửi cho bạn bè
Facebook Twitter
Link: Sms..